Giới thiệu Nhật Bản (日本紹介)

Giới thiệu con người đất nước văn hoá Nhật Bản (日本及び日本の文化を紹介)


Quảng cáo này xuất hiện trên các Blog không cập nhật bài viết trên 1 tháng
Nếu bạn cập nhật bài viết mới thì quảng cáo này sẽ mất đi

上記の広告は1ヶ月以上記事の更新がないブログに表示されます。
新しい記事を書くことでこちらの広告は消えます。

Văn học (文学)

Genji Monogatari ( truyện Genji hay còn gọi là Nguyên Thị Vật Ngữ) là bộ tiểu thuyết vĩ đại của Murasaki xuất hiện vào đầu thế kỉ XI ở Nhật như một kì quan.



Với kiệt tác này, nữ văn sĩ thiên tài Murasaki đã chính thức khai sinh cho nhân loại một thể loại văn chương mới là tiểu thuyết mà nàng gọi nó đơn giản là monogatari ( vật ngữ : truyện, cách gọi văn chương tự sự vào thời nàng )

Genji là người tình vĩ đại, quyến rũ tuyệt vời, tài hoa khả ái, một nguyên mẫu thực sự. Truyện Genji không phải một truyện kể mà còn là một mỏ tưởng về một hiện thực tinh thần, thẳng thắn và không hề ủy mị.

Khi cỏ tím dậy màu rực rỡ

Nữ sĩ Murasaki viết tiểu thuyết và nhật kí trong triều đại của Thiên hoàng Ichijo ( 986 - 1011) thuộc vào thời đại rực rỡ nhất của văn hóa Nhật Bản gọi là thời Heian ( Bình An ) bao trùm từ thế kỉ IX đến trọn thế kỉ XII.

Đó là thời đại tôn thờ cái đẹp.

Do kiệt tác truyện Genji là tuyệt đỉnh sáng tạo của thời Heian mà Morris đã gọi thời đại ấy là Thời đại Murasaki và cuộc sống văn hóa thời ấy gọi là Thế giới của ông hoàng sáng chói, bới vì ông hoàng sáng chói chính là biệt danh của Genji.

Murasaki Shikibu sinh vào khoảng năm 978, thuộc dòng họ quí tộc lừng danh Fujiwara.

Murasaki không phải là tên thật của nàng, còn Shikibu ( thức bộ ) chỉ là một tước vị mà nàng thừa hưởng của cha nàng, chứ thật ra nàng không đảm trách một chức vụ cụ thể nào.

Trong nhật kí của mình Murasaki có viết về chuyện học chữ thời ấu thơ:
” Khi anh tôi còn nhỏ, anh phải tập đọc Sử kí của Tư Mã Thiên. Tôi ngồi bên anh, lắng nghe và học thuộc rất nhanh, còn anh tôi thì chậm chạp và hay quên. Cha là người chuyên tâm đọc sách, hay lấy làm tiếc rằng tôi không phải là con trai…”

Ở tuổi đôi mươi, Murasaki kết hôn với người anh họ Nobutaka. Đó là một cuộc hôn nhân hạnh phúc và nàng đã sinh hạ một cô con gái vào năm 1000. Nhưng chồng nàng mất ngay năm sau, năm mà Nhật Bản phải chịu một nạn dịch hạch khủng khiếp.

Sau khi trở nên góa bụa, dường như nàng muốn về quê sống một vài năm và tiếp tục viết cuốn tiểu thuyết trường thiên Genji monogatari

Đến năm 1005 thì người ta thấy nàng có mặt trong cung hoàng hậu Akiko, người nhỏ hơn nàng 5 tuổi.

Thiên hoàng Ichijo có hai hoàng hậu : Sadako và Akiko. Hai người ở hai cung độc lập. Mỗi người cố gắng quy tụ trong cung của mình những nữ quan và tùy nữ tài sắc nhất nước.

Trong cung của Sadako sáng chói nhất là nữ sĩ Sei Shonagon, tác giả tập tùy bút lừng danh “Makura no sôshi” ( Châm thảo tử = sách gối đầu )

Còn niềm tự hào của hoàng hậu Akiko là Murasaki Shikibu và Izumi Shikibu. Izumi là nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thời ấy.

Murasaki, Sei và Izumi thường được nhắc đến như bộ ba thiên tài của nữ lưu Nhật Bản cổ điển.

Đọc Genji monogatari, dù ta đọc đi dọc lại hàng nghìn lần đi nữa, thì cái bí ẩn của muôn nghìn vẻ đẹp nơi nó cũng khó lòng được khám phá tận cùng.

Ta vẫn tự hỏi Murasaki là ai?

Murasaki có phải là bút hiệu mà nàng chọn cho mình theo tên một nữ nhân vật trong Genji do chính nàng sáng tạo?

Nhưng cũng xó thể cái tên này bắt nguồn từ một loài cỏ màu tím do chính Thiên hoàng Ichijo đặt cho nàng, dựa theo một bài thơ nổi tiếng:

Khi cỏ tím ( Murasaki ) dậy màu rực rỡ
Cỏ hoa đồng nội khác chẳng ai nhìn.

Tên nàng chúng ta không biết rõ.

Đời sống và cái chết của nàng cũng rất mơ hồ.

Có một truyền thuyết cho rằng nàng viết kiệt tác Genji ở đền Ishiyama bên bờ hồ Biwa. Người ta thường kiêu hãnh trình bày cho du khách xem căn phòng trong ngôi đền được tin là nơi nàng ngồi viết và cho xem cả nghiên mực và một cuốn Kinh Phật với chữ viết của nàng.

Nhưng Genji được viết ở đâu và khi nào vẫn chưa sáng tỏ, giữa khoảng thời gian từ năm 1000 - 1004.

Nhưng điều đó thật ra cũng quan trọng gì đâu.

Chạm tới Genji Monogatari là chạm tới cái đẹp, như thể chạm vào một nhan sắc chưa từng có.

Đọc nhật kí của nàng, ta còn nhận ra một niềm cô đơn mênh mang mà có lẽ thiên tài của nàng đã đẩy nàng vào. Đó là cái cô đơn của những người đã lên đến ngọn cô phong của cuộc sáng tạo :

“Tôi nhớ cuộc sống trước đây của mình như một người lữ khách lang thang trên những nẻo mộng đời và tôi chán ghét mình đã quá quen thuộc với cuộc sống cung đình…

Thật là bất hạnh nếu các trang viết của tôi lại rơi vào tay người đời. Tôi đã viết rất nhiều, nhưng mới đây tôi xé tất cả, chôn đi một số hoặc là xếp nhà giấy cho các hình nhân…”

” Định mệnh của tôi là cô đơn.”
( Murasaki Shikibu nikki - Nhật kí Murasaki Shikibu )



Thông tin Nhật Bản
Viet Nhat đăng tải các thông tin liên quan đến Du học; Học bổng; Việc làm tại Nhật.
Vui lòng liên hệ với chúng tôi để nhận được các thông tin chi tiết.
Chúng tôi sẽ đại diện cho các bạn để liên hệ với phía Nhật Bản



Văn học (文学)

Murasaki Shikibu (tiếng Nhật: 紫式部, Hán Việt: Tử Thức Bộ; 978-1016) là biệt hiệu của một nữ văn sĩ cung đình thời Heian Nhật Bản, tác giả của cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, kiệt tác Truyện kể Genji, được viết bằng tiếng Nhật vào khoảng năm 1000 đến 1012. Murasaki Shikibu chỉ là biệt hiệu của bà, không ai biết rõ tên thật của bà là gì và bà sinh ra ở đâu, chỉ biết bà thuộc dòng dõi Fujiwara Takako và mất tại Tokyo, tuy một địa điểm tham quan phía Bắc Kyoto hiện nay được coi như mộ của bà.



Biệt hiệu

Mặc dù các học giả đã dày công nghiên cứu nhưng không ai biết tên thực của Murasaki Shikibu và điều đó cũng phổ biến đối với nhiều nữ sĩ cung đình Nhật Bản. Ở nước Nhật thời Heian, điều coi là không đứng đắn khi nêu tên tuổi các phu nhân thuộc gia đình quyền quý, chỉ có ngoại lệ lạ lùng là tên cung phi của vua và các quận chúa thuộc hoàng gia thì được cho phép. Biệt hiệu Shikibu (式部) chỉ chức vụ của cha bà, và Murasaki (紫) có thể xuất phát từ tên của một trong những nhân vật chính trong cuốn Truyện kể Genji, nàng Murasaki đẹp lộng lẫy và giống mối tình đầu của Genji như đúc, nên rất được hoàng tử Genji sủng ái; hoặc chỉ đơn giản có nghĩa là màu "tía" (thuộc dòng vương giả); hay loại hoa màu tím mang tên hoa murasaki (hoa đậu tía, còn được gọi bằng tên hoa Fuji cũng là nửa đầu trong tên dòng họ của bà, Fujiwara).

Tiểu sử

Murasaki Shikibu thuộc cành thứ của dòng họ lớn Fujiwara trị vì đất nước với những ông vua trong suốt phần lớn thời Heian, cùng tổ phụ về phía họ nội 6 thế hệ trước đó với Fujiwara Michinaga, quan đại chưởng ấn điều khiển việc nước trong buổi đầu thế kỷ 11. Tuy nhiên khi Murasaki Shikibu mới ra đời chi họ của bà bị tụt xuống hạng thứ trong giới quý tộc cung đình. Cha bà, ông Fujiwara no Tametoki (藤原為時) chỉ là một nhà thơ, người có địa vị khiêm nhường ở thủ đô và đã 2 lần làm tỉnh trưởng tỉnh Echizen.

Không ai biết gì nhiều về thời thơ ấu của Murasaki Shikibu ngoài những điều bà tự nói với chúng ta. Trong lời mào đầu nổi tiếng của cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu (Murasaki Shikibu nikki) mô tả các biến cố triều đình từ cuối 1008 đến đầu 1010 cho chúng ta biết cha bà, thấy con gái có khả năng trong việc học hành, đã than phiền bà không sinh ra là con trai. Cha bà trở thành tỉnh trưởng Echizen ở duyên hải Biển Nhật Bản, phía bắc Tokyo, vào năm 990 và bà đã đi theo cha đến nơi nhậm chức cho đến khi lấy chồng thì trở về.

Murasaki vào triều hầu hạ thứ phi Akiko, con gái của Michinaga, trong cung điện Fujitsubo thời Thiên hoàng Ichijo (986-1011) trong khoảng giữa thập niên đầu của thế kỷ 11. Nhật ký Murasaki Shikibu của Murasaki có nhắc đến sự ra đời của hai người con trai hoàng hậu và cả hai hoàng tử sau đó đều trở thành vua. Trong nhật ký của mình Murasaki cho biết bà vào triều ngày 29 tháng 12 âm lịch nhưng không cho biết năm, có thể là năm âm lịch 1005 và/hoặc 1006. Hoàng hậu Akiko góa chồng năm 1011, khi Thiên hoàng Ichijo băng hà, và Murasaki Shikibu còn ở lại trong cung phục vụ hai năm tiếp theo.

Chịu sự giáo dục chu đáo, tỉ mỉ của một phụ nữ trẻ cùng tầng lớp trong cung, và mặc dầu có một trí tuệ khác thường, Murasaki Shikibu đã phải tiếp thu một cách chậm chạp nhưng chắc chắn tất cả những kiến thức văn hóa rộng lớn đương thời mà người thiếu phụ này truyền cho, từ lịch sử Trung Hoa, thơ ca trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản cho đến các trước tác triết học Khổng giáo và Phật giáo. Về truyện hư cấu bằng văn xuôi, bà cũng chỉ biết không nhiều hơn là những trước tác buổi đầu của chính người Nhật Bản vào thế kỷ 10 và ngay cả văn xuôi trong văn học Trung Hoa đương thời, vốn không phải là loại hình được người Trung Hoa ca ngợi hay thành thạo vào thời đó.

Murasaki Shikibu lấy chồng khoảng năm 998 hoặc năm 999, chồng là một người bà con xa với bà. Có lý do để tin rằng, so với thời bấy giờ bà lấy chồng khá muộn, có lẽ vào tuổi 20. Bà sinh được một con gái vào năm 999 và góa bụa vào năm 1001.

Chịu nhiều đau khổ sâu sắc trong đời tư nên Murasaki Shikibu đã sớm rút lui khỏi thế giới trần tục và dồn sinh lực của đời mình vào việc học tập cũng như sáng tạo nghệ thuật. Bà đã đạt được những thành tích xuất sắc trong âm nhạc, thơ, hội họa, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Truyện kể Genji 54 chương, viết xong vào khoảng năm 1004, một kiệt tác đứng vào hàng lớn nhất của văn xuôi cổ điển Nhật Bản cũng như văn xuôi nhân loại



Thông tin Nhật Bản
Viet Nhat đăng tải các thông tin liên quan đến Du học; Học bổng; Việc làm tại Nhật.
Vui lòng liên hệ với chúng tôi để nhận được các thông tin chi tiết.
Chúng tôi sẽ đại diện cho các bạn để liên hệ với phía Nhật Bản



Văn học (文学)

YOSHIMOTO BANANA

YOSHIMOTO BANANA _Tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản

Ở Hội nghị Thượng đỉnh G7 của 7 cường quốc kinh tế năm 1993, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật đã tặng cuốn "Kitchen" của Yoshimoto Banana cho các vị nguyên thủ tham gia Hội nghị.Yoshimoto Banana tên thật là Yoshimoto Mahoko, sinh năm 1964, con của một triết gia, bình luận gia nổi tiếng, và chị của cô là một tác giả thành danh về truyện bằng tranh. Cô trưởng thành trong một gia đình có khuynh hướng cấp tiến, và sớm sống tự lập. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn ở Đại học Nihon, cô bắt đầu chuyên chú vào việc viết tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tay của cô là "Bóng từ Ánh Trăng - Muunraito Shadô - Moonlight Shadow" đoạt giải Izumi Kyoka năm 1986, và cô trở thành hiện tượng văn học trong năm sau đó với tác phẩm "Nhà Bếp - Kitchin - Kitchen". Cô đã viết những tác phẩm nầy trong giờ nghỉ khi làm hầu bàn trong một quán ăn ở Tokyo. "Nhà Bếp" được giải "Tác giả Mới - KaiEn" sau đó được quay thành phim, một phim ở Nhật cho TV, và một phim ở Hongkong phổ biến rộng rãi hơn.



Nhân vật chính trong "Nhà Bếp" là một cô gái mới đến tuổi thành nhân, cô độc vì vừa mất tổ mẫu, người thân cuối cùng đã nuôi cô lớn lên, cô thích nhà bếp là nơi cho cô sự an ủi và cảm giác an toàn, đến nỗi dùng luôn nhà bếp làm chỗ ngủ. Nhà quá rộng sau khi bà cô mất đi, nên cô đến trọ nhà một người bạn phái nam mồ côi cha, thật ra là sau khi người mẹ mất, người cha vốn có khuynh hướng đồng tính luyến ái đã sinh hoạt: ăn mặc, cư xử, hành động, như người mẹ nuôi con. Rồi người "mẹ" nầy, làm việc ở một quán rượu cho người đồng tính luyến ái, lại bị giết. Truyện tập trung vào tâm tình cô quạnh âm thầm một-mình-trong-bóng-đêm-cuộc-đời của cô và người bạn ấy, những người còn quá trẻ để biết cách ứng xử với định mệnh khắc nghiệt phủ xuống đời mình.

Nhân vật chính trong "Bóng từ Ánh Trăng" cũng là một thiếu nữ, mất người yêu vì tai nạn xe hơi. Toàn truyện giống như một hồi ức mờ ảo mà êm đẹp về những kỷ niệm với người yêu quý đã mất đi từ lâu lắm rồi, nhưng nguời con gái vẫn cố bám víu trong tuyệt vọng lòng mong ước được gặp lại người yêu.

Các tác phẩm tiếp theo của Yoshimoto Banana cũng đặt trọng tâm ở tính bi ai của đời sống hiện đại, sự mất mát trong đời sống, nhất là cái chết của người thân, người yêu, đặc biệt đối với phái nữ còn trẻ, những khổ đau định mệnh chồng chất lên những thân phận vốn đã bị ngược đãi trong xã hội hiện tại. Dù vậy, trong khoảng tối ám có khi đến cùng cực ấy, vẫn le lói tia sáng hy vọng dựa trên lòng tin của tác giả vào nhân tính "humanity", để con người tự hồi phục hay được chữa lành. Tác phẩm của cô dung nhận đồng tính luyến ái, ngoại tình, phái nam mặc y trang của phái nữ,... như phản ứng đối với số phận.



Cô ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng văn phong của Stephen King và Truman Capote. Tiểu thuyết gia (truyện kinh dị, theo lối phân loại phổ biến) Stephen King là khuôn mẫu mà cô muốn đạt tới. Cô xem Stephen King là "niềm hy vọng mà tôi ôm ấp về văn học", "một trong những lý do tại sao tôi viết tiểu thuyết", với "năng lượng" siêu việt, "đà viết" như bão táp, "người như thế mà không trở thành tiểu thuyết gia thì hẳn là đã nổi điên lên vì tài năng chất chứa mà không thoát ra được". Cô ngưỡng mộ sự nhất quán gìn giữ nhân tính trong các tác phẩm của Stephen King, trong mọi nghịch cảnh dù khắc nghiệt đến đâu, vẫn tha thiết bảo vệ "sự tôn nghiêm của nhân phẩm".

Cũng như Murakami Haruki, cô chịu ảnh hưởng của âm nhạc và văn học Âu Mỹ, thường dẫn dụng những chi tiết ngoại lai ấy trong tác phẩm của cô. Tác phẩm "Moonlight Shadow" đã dựa trên bản nhạc cùng tên trong tập nhạc "Crises" của Mike Oldfield, tác phẩm "N.P" cũng dựa trên "North Point", một bản nhạc khác của Oldfield. Cô đề tặng tập truyện "Thằn Lằn" (Tokage - Lizard) cho Kurt Cobain (1967-1994), ca-nhạc-sĩ Mỹ, lãnh đạo ban nhạc Rock nổi tiếng Nirvana: "nếu không có nhạc của anh thì tôi chẳng bao giờ viết được những truyện nầy. Anh đã ra đi, nhưng nhạc của anh còn mãi với chúng tôi".

Vài nhà phê bình Nhật Bản phê phán việc cô không ngừng dùng những nhân vật chịu ảnh hưởng ngoại lai, mê say âm nhạc Anh Mỹ và trang trí nội thất theo kiểu Mỹ, như thế là "quá hời hợt, nông cạn, kỳ quái, không đúng với thực tế Nhật Bản"; nhưng thật ra, nhân vật và tình tiết trong tác phẩm của cô phản ánh đúng nhiều mặt sinh hoạt của giới trẻ Nhật Bản hiện đại. Còn bị phê phán là khả nghi về đạo đức từ quan niệm có phần dễ dãi về những vấn đề tính dục, thật ra, cô thiên về sự cảm thông và lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ khắc nghiệt mà con người phải chịu đựng trong xã hội tranh sống hiện đại.

Bên trong bề ngoài có vẻ thời trang, tác phẩm của cô vẫn bắt nguồn từ những tâm-cảm bén nhạy truyền thống, nhất là quan niệm về những vẻ đẹp nhất thời, ngắn ngủi của đời người, những nỗi bi-ai hàm chứa sẵn trong niềm vui, những ân hận tiềm tàng trong hạnh phúc. Tiêu biểu trong cảm tưởng của Kazami, nhân vật nữ chính trong "N.P", lúc đang trò chuyện rất hạnh phúc với người bạn thân trong một ngày nắng ấm: "Quãng đời nầy của tôi thật là êm đẹp, tuyệt vời. Nhưng có giới hạn và không thể kéo dài mãi được".

Đến nay, tác phẩm của Yoshimoto Banana đã bán hết hơn 6 triệu cuốn ở Nhật và hơn 1 triệu cuốn ở ngoại quốc, đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng, xuất bản ở Mỹ, Anh, Pháp, Spain, Hoà Lan, Denmark, Hy Lạp, Ý, Finland, Croatia, Nga, Brasil, China, Taiwan, HongKong, Việt Nam, Thái, Turkey, Israel, ... Tác phẩm của cô có lần đã được kể vào hàng sách bán chạy nhất ở YÙ, và cô được nhiều giải thưởng văn học của YÙ những năm 1993, 1996 và 1999.

Ngoài tiểu thuyết, cô đã xuất bản nhiều tập truyện ngắn, và tiểu luận. Những tác phẩm tiêu biểu là "Nhà Bếp", "Tsugumi" (giải Văn Học Yamamoto Shugoro 1989, được Ichikawa Jun quay thành phim năm 1990), "N.P.", "Thằn Lằn" ("Tokage - Lizard", tập truyện ngắn), "Amurita" (giải MurasakiShikibu 1995), "Trăng Mật" ("Honey Moon").

Mặc dù đã nổi tiếng như thế, cô vẫn tỏ ra là người thực tế, có hơi bí ẩn. Thường ăn mặc giản dị, ít trang điểm. Ngày nay cô đã có được sự an toàn nhờ đã nổi tiếng, sách cô bán chạy không bị ảnh hưởng bởi phê bình. Cô viết mỗi ngày ít nhất 30 phút trên máy tính.

Cô giải thích rằng đã lấy bút hiệu là Banana vì thích hoa chuối.

Web : www.yoshimotobanana.com/



Thông tin Nhật Bản
Viet Nhat đăng tải các thông tin liên quan đến Du học; Học bổng; Việc làm tại Nhật.
Vui lòng liên hệ với chúng tôi để nhận được các thông tin chi tiết.
Chúng tôi sẽ đại diện cho các bạn để liên hệ với phía Nhật Bản



プロフィール
nhatban
nhatban
Đây là trang Blog trao đổi, cập nhật liên tục thông tin Việt Nam và Nhật Bản hàng ngày. Rất mong sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn nữa đến các bạn có nhu cầu tìm hiểu về Nhật Bản, đồng thời cũng mong nhận được nhiều bài viết và những chia sẽ của các bạn để trang Bolg ngày càng phong phú hơn.
< April 2025 >
S M T W T F S
    1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30      
過去記事
カテゴリ

QRコード
QRCODE
RSS của từng danh mục
アクセスカウンタ
読者登録
Chúng tôi sẽ gửi những bài viết mới nhất đến địa chỉ email đăng ký. Xóa Tại đây
Số lượng người đọc hiện tại là 2 người